Nạp nước cho sa mạc sương mù

Sa mạc Namib – trên thực tế, ở những quốc gia khan hiếm nước ngọt, chỉ những người “giàu có” như Ả Rập Xê Út, Kuwait, Israel hay Mỹ mới sử dụng nước mặn hoặc nước lợ để làm nước ngọt. Nhưng hơn một tỷ người nước ngọt sống chủ yếu ở các nước đang phát triển. Khi nghiên cứu về mưa axit ở Quebec, Canada, nhà khí tượng học Robert Schemeauer ở Nambe đã rất thú vị và ngạc nhiên khi phát hiện ra một số loài thực vật sử dụng sương mù như thế nào. Bởi vì hồ Tahoe trên đảo Canary đã biết dùng những cây có lá to để hứng nước trong sương mù. Vào thế kỷ 16, những người thổ dân đã có thể khai thác chúng bằng cách đào giếng dưới các thân cây.

Schemeauer đã sao chép chúng và bắt chước thiên nhiên bằng cách tạo ra một cấu trúc lưới để chụp sương mù. Sương mù là lớp mây mỏng nằm gần mặt đất có chứa một lượng lớn hơi nước, khi trời lạnh có thể tụ lại trên lá ở độ cao từ 5 đến hàng chục mét trong điều kiện lặng gió tạo thành các giọt nước. Ở Namibia, lượng mưa hàng năm là 15 mm, nhưng có 180 ngày ở các vùng ven biển có sương mù. Schemeauer đã thành lập một tổ chức phi chính phủ tên là Fog Quest để khuyến khích việc sử dụng sương mù để lấy nước. 50 lưới propylene cung cấp 10.000 tấn nước ngọt cho 350 cư dân Chuamgo, Chile, và công nghệ này cũng được xuất khẩu sang Nepal, Haiti và Namib.

Giáo sư Yies Coineau từ Viện Lịch sử Tự nhiên Paris, nghệ thuật về bệnh khớp, biết rất rõ về Nambib. “Thật tuyệt khi thấy thực vật và động vật phát triển trong điều kiện khắc nghiệt như vậy. Vào ban ngày, nhiệt độ của cát là 65 độ C. May mắn thay, nhiệt độ này giảm nhanh theo độ sâu của tim. Do đó, một số loài động vật thường trốn tránh nhiệt độ cao trong cát, chẳng hạn như bò sát và bọ cánh cứng, chỉ xuất hiện vào ban đêm và sáng sớm để lấy nước từ sương mù và thức ăn. Khám phá này đã giúp Johannes Henschel thiết lập ở sa mạc Namib khái niệm về lưới chống sương mù. Lưới propylene rộng 48 mét vuông có thể thu 150 lít nước mỗi sương mỗi ngày. Tuy nhiên, trong tự nhiên, các đặc điểm hình thái của sinh vật chưa được tận dụng hết để hấp thụ độ ẩm trong sương mù.

2001, Nhà nghiên cứu Andrew Parker ở Bảo tàng Tự nhiên Oxford, vỏ của Stanokara, loài bọ cánh cứng ở Namibia, đã được quan sát dưới kính hiển vi điện tử Ông phát hiện ra rằng vỏ của nó có những vết lõm lởm chởm, gây ra những giọt nhỏ li ti. mai rùa trong cơ thể anh ta. Đây là một khám phá có thể phá hủy cấu trúc lều và mái nhà trong sa mạc.

Young Yamato (theo Cam’interesse)

    Leave Your Comment Here